ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 43 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2018)
***
I. Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.
Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.
a. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10-59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959-1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
b. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
c. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất của Mỹ ra miền Bắc.
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
d. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.
e. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 ở Hậu Giang
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ở miền Nam nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, Hậu Giang là mảnh đất nằm ở vị trí chiến lược vô cùng quan trọng không chỉ đối với ta mà ngay cả đối với địch. Ta giữ được mảnh đất này là giữ và bảo vệ được căn cứ địa cách mạng ở U Minh, bảo vệ được huyết mạch vận chuyển quân lương từ căn cứ U Minh đến các địa phương vùng sông Tiền, sông Hậu và ngược lại. Cũng từ đây tạo được thế và lực để trực tiếp uy hiếp địch ở Cần Thơ - trung tâm đầu não của vùng 4 chiến thuật. Địch cũng quyết tâm làm chủ Hậu Giang để làm bàn đạp tấn công U Minh, cắt đứt hành lang vận chuyển của ta, nhằm mục đích đàn áp, dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng. Mảnh đất đã từng là nơi đứng chân thuận lợi của Khu ủy, Trung ương Cục và các địa phương ở miền Tây Nam bộ; Một vị trí quan trọng bảo vệ từ xa Thành phố Cần Thơ - trung tâm đầu não vùng 4 Chiến thuật của địch.
Từ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của Hậu Giang, Mỹ - Ngụy xem đây là địa bàn trọng điểm để tiến hành đánh phá và thử nghiệm các kế hoạch bình định. Chính vì vậy, trên chiến trường Hậu Giang, Mỹ - Ngụy đã tập trung một lực lượng quân sự lớn bao gồm quân chủ lực, bảo an, dân vệ cùng với đa phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, xe thiết giáp, đại bác, pháo bầy cùng với B52 rải thảm, rải chất độc hóa học ngày đêm dội xuống mảnh đất truyền thống cách mạng này. Ngay khi Hiệp định Pari được ký kết, mảnh đất Hậu Giang vẫn không có một giờ phút yên bình, trận chiến vẫn tiếp diễn với cường độ bom đạn ác liệt hơn, nhất là khi địch tập trung 75 tiểu đoàn và tương đương ào ạt tấn công vào vùng căn cứ cách mạng, vùng giải phóng của ta hòng diệt căn cứ của Khu ủy, Tỉnh ủy và nghiền nát các đơn vị chủ lực đang đứng chân trên địa bàn nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường. Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Tỉnh ủy, cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện của quân dân Hậu Giang lần lượt đánh bại các kế hoạch hành quân lấn chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch vào thế phòng ngự bị động.
Cuối năm 1974 đầu 1975, tình hình diễn biến trên chiến trường miền Nam có những bước phát triển lớn, chúng ta đã thực hiện chiến lược phản công và tiến công, đánh bại cơ bản kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, buộc chúng phải quay về giữ đô thị và một số vùng chiến lược. Trước sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 30/9 đến ngày 08/10/1974, Bộ Chính trị đã họp để bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tiếp đến từ ngày 18/12/1974 đến ngày 08/01/1975, Bộ Chính trị tiếp tục họp để bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị dự kiến: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Căn cứ vào Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 29/3/1975, Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết 15. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trực tiếp khẩn cấp của các Đảng bộ là: “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất với mọi tinh thần và lực lượng của mình, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp 3 mũi giáp công, 3 thứ quân, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh sập ngụy quân, ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân dân, với khí thế tiến công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã và đang giành được những thắng lợi quan trọng trên tất cả các mặt trận. Chiến thắng ở các chiến trường ở Tây Nguyên, ở miền Trung làm cho cục diện chiến tranh giữa ta và địch hoàn toàn thay đổi. Ngày 14/4/1975, khi Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử “Một chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô, có kết hợp với nổi dậy của quần chúng kết thúc chiến tranh”. Đó là chiến dịch quyết chiến chiến lược lịch sử. Ngày 15/4/1975, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã có điện văn số 438 gởi đến các Khu ủy và Tỉnh ủy quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Ngày 17/4/1975, Thường trực Tỉnh ủy Cần Thơ chuyển điện của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đến các địa phương trong tỉnh nghiên cứu để quán triệt hơn nữa Nghị quyết 15 của Thường vụ Trung ương Cục.
Thời cơ giải phóng tỉnh nhà đã đến. Từ ngày 22/4 đến 24/4/1975, Thường vụ Tỉnh ủy Cần Thơ triệu tập Hội nghị mở rộng tại Cảng Chủ Hàng, xã Vĩnh Tường, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ (nay là xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang) để triển khai chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, đồng thời hạ quyết tâm giải phóng tỉnh nhà. Tại Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định 3 vấn đề cơ bản phải tập trung giải quyết:
Thứ nhất, làm cho các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ nhất trí cao với việc đánh giá thời cơ lịch sử “ngàn năm có một” để nâng cao quyết tâm hành động cách mạng, đóng góp sức người, sức của cao nhất, nhằm hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, binh vận, coi đó là yếu tố quyết định cho tương quan lực lượng thay đổi, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Thứ ba, bố trí tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo ở các trọng điểm của huyện, xã, phân bố cán bộ, đảng viên để đảm bảo lãnh đạo hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ, nhất là vai trò của lực lượng vũ trang trong tình hình đặc biệt .
Tiếp nhận Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Trung ương Cục, Tỉnh ủy Cần Thơ lãnh đạo quân và dân trong tỉnh ráo riết chuẩn bị toàn diện về mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương. Các Ban khởi nghĩa của tỉnh, thành phố, thị xã, huyện được thành lập và có kế hoạch cụ thể chấn chỉnh, bổ sung lực lượng, đồng thời trang bị vũ khí cho các lực lượng vũ trang. Tại thị xã Vị Thanh, chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng thị xã, ta lập ra Ban chỉ đạo gồm 8 ủy viên (trong đó có 5 đồng chí là Tỉnh ủy viên) do đồng chí Trần Nam Phú - Phó Bí thư Tỉnh ủy làm trưởng Ban. Ban Chỉ đạo đã thành lập 2 Tiểu ban: Tiểu ban lo công kích gồm 5 ủy viên do đồng chí Trần Nam Phú làm Trưởng Tiểu ban; Tiểu ban lo khởi nghĩa gồm 11 ủy viên do đồng chí Lê Hồng Bông (Ba Tình) - Bí thư Thị xã ủy làm Trưởng Tiểu ban.
Lực lượng tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy được huy động rất lớn: Đội biệt động thị xã có 3 đại đội và 1 phân đội trực thuộc, quân số khoảng 200 chiến sĩ; Đội An ninh vũ trang có 25 đồng chí (có 15 hoạt động mật); cơ sở của ta trong lòng địch có 7 đồng chí gồm 3 tề ấp, 3 toán trưởng phòng vệ dân sự, 1 trong căn cứ Trung đoàn 31 địch là đồng chí Nguyễn Văn Nhu (Bảy Nhu); du kích 3 khu vực có hàng trăm đồng chí. Ngoài ra Tỉnh ủy Cần Thơ còn đưa cán bộ xuống tăng cường cho các ấp vùng ven thị xã Vị Thanh để phát động quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa; trong nội ô ta bố trí 3 điểm khởi nghĩa (trong đó 2 trọng điểm có 2 đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách). Các khu vực ven đều có chi bộ lãnh đạo, mỗi chi bộ có từ 3 đến 12 đảng viên. Toàn thị xã có 106 đồng chí đảng viên (11 đảng viên mật) cùng với hàng chục hội viên các đoàn thể như Đoàn viên Thanh niên, hội viên Nông hội, Tổ chức Công khai,…
Ngoài trọng điểm chính ở thị xã Vị Thanh, ở các huyện, thị trấn còn lại sử dụng lực lượng hiện có tiến công đồng loạt vào các quận lỵ theo giờ quy định đã thống nhất trên toàn tỉnh.
Trước những thắng lợi dồn dập của quân dân miền Nam, ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động mạnh, thực sự lâm vào cảnh tuyệt vọng. Khí thế cách mạng của quân và dân tỉnh Hậu Giang trở nên sôi sục. Tất cả đã sẵn sàng nổi dậy tiêu diệt quân thù, giải phóng quê hương.
Giải phóng thị xã Vị Thanh (tỉnh lỵ Chương Thiện)
Sau khi quân giải phóng đánh chiếm 2 đồn ngoại vi thị xã (đồn Mười Thước; đồn 98, còn gọi là đồn Tề Thiên ở kênh Xáng Hậu) và đến 15 giờ ngày 30/4/1975, Đài Phát thanh Cần Thơ phát đi tiếng nói của Ủy ban Quân quản Thành phố Cần Thơ đã làm cho bọn địch tại thị xã Vị Thanh vô cùng hoang mang. Theo kế hoạch ban đầu, lực lượng ta tổ chức tấn công thị xã Vị Thanh vào đêm 1 rạng ngày 2/5/1975 nhưng do tình hình diễn biến nhanh chóng có điều kiện thuận lợi để ta mở cuộc tấn công sớm hơn dự định. Trước tình hình đó, chiều ngày 30/4/1975, Ban Chỉ huy chiến dịch đã họp và quyết định tấn công thị xã Vị Thanh vào sáng ngày 1/5. Lúc này, các cánh quân của ta được lệnh áp sát các mục tiêu đã được phân công để sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Đúng 5 giờ sáng ngày 1/5/1975, giờ G đã điểm, các mũi tấn công đồng loạt nổ súng vào tất cả các mục tiêu theo đúng kế hoạch.
Lực lượng của Tiểu đoàn Quyết Thắng 1 và lực lượng trinh sát của Biệt động thị xã tiến hành đánh vào căn cứ Bộ Tư lệnh Tiền phương Sư đoàn 21 và căn cứ Trung đoàn 31 địch. Quân ta vừa sử dụng pháo bắn vào cứ điểm vừa dùng loa kêu gọi địch đầu hàng. Được sự yểm trợ của pháo binh, Bộ đội chủ lực Quân khu 9 và kết hợp với binh vận (anh nguyễn Văn Nhu, cơ sở nội tuyến của ta nằm trong Đại đội trinh sát của Trung đoàn 31), chỉ sau một thời gian ngắn ta làm chủ được khu vực này.
Mũi tấn công vào căn cứ Giang Thuyền, khu vực sân bay và Trung tâm yểm trợ tiếp vận
Lực lượng ta gồm có 2 đại đội (đội Biệt động thị xã, đại đội địa phương quân huyện Long Mỹ). Tại khu vực sân bay, ta nổ súng tấn công bắt được 8 tên địch, thu 5 máy PRC25 và nhiều vũ khí nhưng chưa làm chủ được trận địa. Tại căn cứ Giang Thuyền, ta đưa khoảng 1.000 quần chúng đến áp đảo, kêu gọi địch đầu hàng nhưng chúng vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Đến khi bọn địch trong tiểu khu của tỉnh lỵ Chương Thiện đầu hàng, ta mới chiếm lĩnh toàn bộ sân bay và căn cứ Giang Thuyền.
Mũi tấn công vào Chi khu Đức Long
Ta dùng lực lượng binh vận thị xã, lực lượng du kích Vùng I có tăng cường một phân đội súng cối 82 ly của Đội Biệt động thị xã. Tại đây, ta bắn cầm chừng đến 6 giờ sáng ngày 1/5/1975, lực lượng binh vận huy động gần 500 quần chúng (có cả gia đình binh sĩ) ở ấp Vị Tín, Vị Nghĩa do ông Thích Huệ Giác dẫn đầu kéo đến kêu gọi binh lính đầu hàng. Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, buộc tên thiếu tá Quận trưởng Võ Hồng Xuân phải ra lệnh đầu hàng. Lực lượng ta tràn vào làm chủ chi khu, thu toàn bộ vũ khí lúc 8 giờ ngày 1/5/1975. Cùng lúc đó bọn địch ở hậu cứ 406 đang bị lực lượng biệt động và du kích Vùng 2 buộc phải đầu hàng.
Mũi đánh vào Ty cảnh sát
Ta sử dụng lực lượng chủ yếu là an ninh vũ trang thị xã (khoảng 50 đồng chí), trong khi đó số quân địch đông hơn ta gấp 4 lần (khoảng 200 tên). Lực lượng của ta đánh vào lô cốt Cầu Đen và doanh trại cảnh sát dã chiến của địch. Trong cuộc tiếp xúc giữa đại diện của ta với tên trung tá Đường - Trưởng Ty cảnh sát, lúc đầu hắn giằng co chưa chịu đầu hàng mà chờ lệnh cấp trên. Đại diện ta tiếp tục thuyết phục và bọn chúng thấy tình thế không thể đảo ngược được nên cuối cùng đã kéo cờ trắng đầu hàng. Lực lượng ta tràn vào chiếm Ty cảnh sát.
Mũi tấn công vào tiểu khu Chương Thiện
Tiểu khu Chương Thiện do tên Hồ Ngọc Cẩn - Đại tá - Tỉnh trưởng cầm đầu được xác định là mục tiêu then chốt và gay cấn nhất trong việc giải phóng thị xã Vị Thanh. Trước khi tấn công, qua vô tuyến điện lực lượng của ta đã nhiều lần liên lạc và kêu gọi Hồ Ngọc Cẩn đầu hàng để tránh gây thêm thương vong cho nhân dân và binh lính. Nhưng với bản chất ngoan cố, hắn không chịu đầu hàng mà ngược lại còn tuyên bố tử thủ. Chính vì thế mà cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt. Với lực lượng của Tiểu đoàn Quyết Thắng 2 cùng 1 đại đội biệt động thị xã và du kích Vùng III ta đã đồng loạt tấn công vào tiểu khu. Hồ Ngọc Cẩn huy động lực lượng xe M113 và tập trung hỏa lực dày đặc ra án ngữ trước tiểu khu và điên cuồng chống trả quyết liệt hòng chặn đường tiến quân của ta. Tên đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã sử dụng vô tuyến điện ra lệnh cho các cứ điểm Trung đoàn 31, Hỏa Lựu, Vịnh Chèo, chi khu Đức Long dùng pháo bắn yểm trợ cho bọn địch ở nội ô thị xã nhằm ngăn chặn các mũi tấn công của quân ta. Nhưng các cứ điểm trên đã đầu hàng hoặc bị pháo binh của ta bắn khống chế nên không bắn yểm trợ được. Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh cho bọn lính phải “tử thủ” và đánh đến cùng. Hắn cho lính lái xe Jeep đưa xuống Trung đoàn 31 để liên hệ với bọn này phối hợp chống lại cuộc tấn công của ta. Nhưng khi xe đến gần căn cứ Trung đoàn 31, Cẩn biết được bọn địch ở đây đã đầu hàng quân giải phóng nên hốt hoảng quay trở lại. Trên đường trở về tiểu khu, hắn bị quân ta chặn bắt tại ngã ba đường Lê Văn Duyệt - Ký Con (Đường 30/4 - Nguyễn Việt Hồng ngày nay).
Phối hợp cùng với các mũi tấn công vũ trang, quần chúng trong thị xã (khoảng 10.000 người đã nổi dậy vây bắt bọn ác ôn ngoan cố, tước vũ khí bọn phòng vệ dân sự, bọn tề, kêu gọi binh lính ngụy giao nộp vũ khí cho cách mạng. Đúng 9 giờ 30 phút ngày 1.5.1975, thị xã Vị Thanh hoàn toàn giải phóng.
Cùng thời gian này quân và dân các huyện trong tỉnh bằng sức mạnh tổng hợp tại chỗ đã tiến hành tổng tiến công và nổi dậy giải phóng địa phương mình.
Giải phóng huyện Châu Thành
Vào đầu năm 1975 được sự hỗ trợ của lực lượng quân khu, quân và dân huyện Châu Thành nổi dậy tấn công địch, đánh nhiều trận lớn gây cho địch nhiều thiệt hại. Ngày 17/2/1975, một bộ phận của Tiểu đoàn Tây Đô I đánh đoàn xe quân sự địch trên lộ Tầm Vu - Rạch Gòi (xã Thạnh Xuân, huyện Châu Thành A), ta diệt 3 xe quân sự. Cũng tại xã Thạnh Xuân, ngày 23/3/1975, Tiểu đoàn Tây Đô I tập kích Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 21) tại Đồng Hòa, quân ta diệt 3 đại đội, trong đó có 1 tiểu đoàn phó, bắn rơi 2 máy bay, bắn bị thương 2 máy bay khác. Trận đánh này mang một ý nghĩa rất sâu sắc là địch tập trung quyết liệt với ta trên một khu vực nhỏ hẹp bao gồm một phần đất của xã Tân Hòa, một phần xã Nhơn Nghĩa, một góc xã Thạnh Xuân mà Tiểu đoàn Tây Đô I đã anh dũng tiêu diệt một lực lượng lín quân địch cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại.
Đến cuối tháng 3/1975, trên đất Châu Thành chỉ còn hơn 40 đồn bót, vùng giải phóng của ta được mở rộng, tạo được thế liên hoàn giữa xã này với xã khác. Cùng thời gian này, ngày 29/3/1975 Nghị quyết đặc biệt của Trung ương đã chỉ rõ phương châm “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, “phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Sài Gòn”. Ngày 26/4/1975 cuộc tổng công kích của quân ta đánh chiếm Sài Gòn bắt đầu, tại khu vực Châu Thành A, đúng 1 giờ sáng ngày 27/4/1975, đơn vị pháo binh, Sư đoàn 4 và Tiểu đoàn 303 (Trung đoàn 1) phối hợp với địa phương quân huyện Châu Thành đánh chiếm các đồn bót ở xã Tân Hòa và Trường Long (xã Trường Long hiện nay chia tách thành 2 xã Trường Long A, Trường Long Tây, còn một phần thuộc về huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ).
Ngày 28/4/1975, khu vực Châu Thành B, quân ta nổ súng tấn công địch giải phóng 3 xã: Phú Hữu, Đông Phước, Đông Phú. Ở xã Phú Hữu, lực lượng du kích được sự hỗ trợ của Tiểu đoàn Tây Đô ngày đêm bao vây đồn bót. Đến 6 giờ sáng ngày 28/4/1975 xã Phú Hữu được hoàn toàn giải phóng. Ta diệt và làm tan rã một tiểu đoàn bảo an, 4 đại đội khác; nhân dân nổi dậy phá trụ sở ngụy, đồn bót và bắt bọn tề. Tại xã Thạnh Xuân, đêm 28/4, tranh thủ uy thế của chủ lực Quân Khu hành quân ngang qua, lực lượng du kích xã đánh chiếm đồn So Đũa Lớn, Trầu Hôi, giải phóng cơ bản xã Thạnh Xuân.
Trong ngày 29/4/1975, mặt trận Châu Thành có 5 mũi đồng loạt tiến công và nổi dậy tiến công địch. Đến 17giờ ngày 30/4/1975, huyện Châu Thành được giải phóng hoàn toàn.
Giải phóng huyện Long Mỹ
Để tiến công và nổi dậy giải phóng huyện nhà, đồng chí Tô Văn Tiên - Bí thư Huyện ủy cho thành lập Ban tiếp quản gồm 5 đồng chí (Phạm Ngọc Hùng, Huỳnh Thanh Bình, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Văn Năm; Võ Thành Phương); đồng thời truyền đạt kế hoạch tiếp quản chi khu Long Mỹ.
Đúng 6 giờ sáng ngày 1/5/1975, Ban tiếp quản đã có mặt tại trụ sở xã Thuận Hưng (nay là khu thương mại thị trấn Long Mỹ). Lực lượng quần chúng các xã trong toàn huyện treo băng, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng và hô vang khẩu hiệu “Giải phóng miền Nam”, “Nguyễn Văn Bình đầu hàng, giao chính quyền cho cách mạng”. Trước khí thế sôi sục cách mạng và sức mạnh áp đảo của lực lượng quần chúng và sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, Quận trưởng Nguyễn Văn Bình buộc phải đầu hàng và giao chính quyền cho Ban tiếp quản vào lúc 8 giờ sáng ngày 1/5/1975. Cùng ngày, tất cả các xã trên địa bàn huyện đều được giải phóng. Riêng Yếu khu Trà Lồng (xã Long Phú, huyện Long Mỹ - nay là thị trấn Trà Lồng) do tuyên úy chuẩn tướng, Huỳnh Văn Tông chỉ huy vẫn ngoan cố tử thủ. Để tránh thương vong cho nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh chính trị, tranh thủ các linh mục và Hội đồng giáo xứ phát động giáo dân lên án Mỹ - Thiệu, kêu gọi linh mục Huỳnh Văn Tông về với đạo và nhân dân. Cuối cùng trước nguy cơ yếu khu Trà Lồng bị tiêu diệt, cùng sức ép của lực lượng quần chúng và lực lượng vũ trang của ta, Huỳnh Văn Tông buộc phải đầu hàng. Đến 13 giờ chiều ngày 1/5/1975, chính quyền cách mạng đã tiếp quản yếu khu Trà Lồng và Long Mỹ được giải phóng hoàn toàn.
Giải phóng huyện Phụng Hiệp
Vào đêm 29 rạng sáng ngày 30/4/1975 hai đại đội địa phương quân của huyện đã phục kích gây thiệt hại hai tiểu đoàn bảo an 473 và bọn chi khu đi mở đường trên lộ 4, tại đây cuộc chiến đấu giữa ta và địch giằng co nhau quyết liệt. Trưa ngày 30/4/1975, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tinh thần quân địch hoang mang đến cực điểm, tận dụng thời cơ quân và dân huyện Phụng Hiệp đẩy mạnh 3 mũi tấn công, đến 2 giờ chiều buộc chúng phải đầu hàng, giao nộp toàn bộ vũ khí, lực lượng ta chiếm lĩnh chợ Cầu Trắng (nay là xã Tân Long). Phát huy thế tiến công địch, ngay đêm ngày 30/4 rạng sáng ngày 1/5/1975 lực lượng của ta đã chiếm lĩnh ngã ba Cây Xăng, thị trấn Phụng Hiệp, đến 7 giờ sáng ngày 1/5/1975, ta làm chủ trận địa pháo ở sân vận động huyện Phụng Hiệp. Thừa thắng lực lượng 3 mũi tiến công cùng với quần chúng nổi dậy giải phóng thị trấn Phụng Hiệp lúc 8 giờ cùng ngày. Lực lượng vũ trang địa phương cùng quần chúng nổi dậy giải phóng các xã trên địa bàn toàn huyện trong ngày 1/5/1975.
Bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và lực lượng binh vận quần chúng cách mạng, quân dân tỉnh Hậu Giang đã nổi dậy với khí thế: “Một ngày bằng hai mươi năm!”, chỉ trong 2 ngày 30/4 và 1/5/1975 đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Hậu Giang, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hơn hai mươi năm kháng chiến, Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Phát huy ưu thế của cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện”, với phương châm “hai chân”, “ ba mũi”, kết hợp chặt chẽ vùng nông thôn với thành thị, đánh địch với nhiều hình thức. Đảng bộ, quân và dân tỉnh Hậu Giang đã phải trải qua một thời kỳ thử thách lớn lao, đương đầu với một kẻ thù to lớn, hùng mạnh với biết bao mưu mô và thủ đoạn thâm độc, tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cùng những phương tiện chiến tranh hiện đại. Cuối cùng quân và dân Hậu Giang đã giành thắng lợi trọn vẹn, góp phần cùng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
4. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.
- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
5. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
6. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
II. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc …
2. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới. Toàn dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh, chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
5. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới. Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến; ngày nay là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh, xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Kỷ niệm 43 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chính là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Từ truyền thống tốt đẹp đó, cán bộ, đảng viên và Nhân dân Hậu Giang phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, chấp hành tốt các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, Pháp luật của Nhà nước, ra sức thi đua, công tác tốt, học tập tốt, góp phần xây dựng thế hệ trẻ đủ sức dư tài vươn ra hội nhập quốc tế, tiếp bước hành trình vĩ đại vì sự nghiệp “Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh”.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hậu Giang